Empowered by a passion for innovation,
we create expectional value and experiences
that enrich the lives of our customers
Revs your Heart YAMAHA

KANDO - Triết lí định hình sự phát triển của Yamaha Motor

KANDO là một từ tiếng Nhật diễn tả cảm xúc hài lòng, phần khích mạnh mẽ khi trải nghiệm một điều gì đó có giá trị vượt trội.

Kể từ khi thành lập, Yamaha Motor đã không ngừng phát triển hoàn thiện các sản phẩm. Với việc đúc kết các giá trị và bản sắc đặc trưng của mình, công ty đã quyết định lựa chọn sứ mệnh "trở thành một công ty tạo ra KANDO" kể từ đó với nền tảng triết lý này đã góp phần tạo nên cá tính và sự khác biệt trong các sản phẩm, trong đó có động cơ thủy gắn ngoài.

Yamaha Motor luôn cố gắng thực hiện hóa ước mơ của mọi người bằng sự khéo léo và đam mê, đồng thời sẽ trở thành cái tên mà mọi người tìm kiếm về các sản phẩm tuyệt với hoặc ý tưởng thú vị mang lại giá trị đặc biệt và sự hài lòng của người dùng.
Thúc đẩy bởi sự đam mê, sự đổi mới Yamaha luôn tạo ra những giá trị nhằm mang lại trải nghiệm thú vị tới khách hàng.

Khởi đầu phát triển động cơ gắn ngoài

Vào năm 1953, Ngài Genichi Kawakami - người sáng lập Động cơ Yamaha đã có chuyến công tác kéo dài 90 ngày để nghiên cứu và quan sát thị trường Mỹ và châu Âu sau khi nhậm chức Chủ tịch Công ty. Trong chuyến đi đó, ông đã nhiều lần nhìn thấy sự hứng thú với biển cả từ con người ở đây và điều này đã thúc đẩy động lực và tinh thần của ông để phát triển thị trường Hàng hải Nhật Bản ngày càng rộng khắp.
Sau khi về nước, Kawakami đã quyết định mua và nghiên cứu con tàu buồm tuần dương để tìm hiểu liệu rằng sự thu hút của hoạt động giải trí trên biển xuất phát từ đâu và dành thời gian tận hưởng trên Hồ Hamana.
Chiếc tàu của ông ấy gắn một động cơ gắn ngoài từ một thương hiệu nổi tiếng của Mỹ vào thời điểm đó, nhưng nó thường xuyên bị hỏng nên ông ấy đã chuyển sang một thương hiệu Nhật Bản để thay thế. Nhưng ông phát hiện ra rằng mặc dù nó gặp ít vấn đề về máy móc hơn, nhưng hiệu suất của nó thậm chí còn không sánh được với dàn ngoài của Mỹ.
Đó là điều đã cho Chủ tịch Kawakami một ý tưởng; Yamaha nên tạo ra một mẫu động cơ gắn ngoài ổn định hơn. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Nhật Bản chỉ mới bước vào thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng sau chiến tranh. Các thiết bị điện gia dụng chỉ mới bắt đầu xuất hiện trong các gia đình Nhật Bản và hầu hết ý tưởng đi dã ngoại, chèo thuyền vào cuối tuần thậm chí chưa bao giờ xuất hiện. Chủ tịch Kawakami biết rằng ngay cả khi họ thành công trong việc phát triển một động cơ gắn ngoài, họ cũng không thể kinh doanh việc bán chúng nếu không có ai quan tâm đến việc mua chúng. Vì vậy, ông ấy xác định rằng mục tiêu duy nhất của họ trong thời điểm hiện tại là động cơ của Yamaha sẽ sử dụng cho mục đích thương mại, chẳng hạn như ngư dân nhận thấy họ cần bắt đầu cơ giới hóa thuyền của mình, và ông đã chỉ đạo bắt tay vào phát triển một mẫu động cơ gắn ngoài đầu tiên của Yamaha.
Đến năm 1958 các kỹ sư của Yamaha đã chế tạo thành công động cơ gắn ngoài dựa trên nguyên mẫu của động cơ mô tô Yamaha YD-1, nhưng do nhiều khó khăn trở ngại, dự án bị hủy bỏ. Vào thời điểm đó, trong quá trình phát triển dự án mới các kỹ sư đã thiết lập ra tiêu chuẩn để thử nghiệm sản phẩm, họ chạy thử nghiệm nhiều lần nguyên mẫu trong bể chứa trong 24 giờ liên tục cho đến khi có phần nào đó của động cơ bị hỏng, sau đó động cơ được kiểm tra lại để tìm ra hướng khắc phục.
Năm 1960, cuối cùng một động cơ gắn ngoài sẵn sàng cho thị trường đã được hoàn thành với tên gọi P-7 và kế hoạch sản xuất 200 chiếc mỗi tháng. Điều này đánh dấu sự khởi đầu của lịch sử Yamaha với động cơ gắn ngoài. Tuy nhiên P-7 vẫn chưa phải là phiên bản tốt nhất, nó hoạt động khá ồn rung động mạnh. Mãi đến một năm sau đó, năm 1961 động cơ gắn ngoài ngoài của Yamaha mới bắt đầu được công nhận và chấp nhận trên thị trường. Điều đó thúc đẩy Yamaha phát hành mẫu thứ hai với tên P-3, được trang bị động cơ 3 mã lực xi-lanh đơn 63cc làm mát bằng không khí. Nó đã được phát triển chính xác cho nhu cầu của thị trường sử dụng thương mại đang phát triển, nơi động cơ 3 mã lực là tiêu chuẩn thực tế trên thị trường.
Được phát triển tập trung vào độ bền của động cơ và khả năng chống ăn mòn, P-3 có khả năng chống mài mòn đặc biệt. Điều này là nhờ vào vật liệu hợp kim nhôm được phát triển độc quyền và có chứa silicon. Đây cũng là động cơ gắn ngoài nội địa đầu tiên sử dụng các bộ phận đúc, giúp đạt được thiết kế nhẹ hơn và nhỏ gọn hơn. Đặc biệt chú ý đến việc làm cho động cơ dễ dàng khởi động và vận hành.
Không giống như P-7 được phát triển bằng cách thử nghiệm theo phương pháp THỬ-SỬA, P-3 được cải tiến dựa trên phản hồi từ trực tiếp từ thị trường, và cũng là sản phẩm đầu tiên của Yamaha có sự kết hợp yếu tố phản hồi của thị trường vào sản phẩm. Bất kỳ khiếu nại nào từ người dùng và đại lý, các kỹ sư Yamaha đều tiếp nhận trực tiếp sau đó họ tìm ra giải pháp khắc phục.
Khi thông tin lan truyền về những ưu điểm của P-3, nó nhanh chóng bắt đầu xuất hiện với số lượng ngày càng nhiều tại các cảng cá của Nhật Bản, nơi hầu hết các tàu thuyền đều được trang bị động cơ của các thương hiệu khác. Tại một thị trấn đánh cá ở phía đông của tỉnh Chiba, người ta nói rằng chỉ mất một năm để hầu như tất cả các tàu đánh cá của cảng chuyển sang sử dụng thuyền P-3 của Yamaha.

Tạo dựng nền tảng

Năm 1967, chủ tịch Kawakami có cuộc gặp với Đại sứ Pakistan tại Nhật Bản. Sự kiện này đánh dấu việc quá trình liên doanh của Yamaha Motor vào các thị trường động cơ gắn ngoại ở nước ngoài.
Khi các kỹ sư của Yamaha lần đầu đến với miền đông Pakistan (Bangladesh hiện nay) và nhận thấy hệ thống kênh rạch cũng như việc sử dụng rộng rãi các phương tiện giao thông thủy, điều này mang lại nhu cầu tiềm năng vô cùng to lớn đối với động cơ gắn ngoài. Tuy nhiên một trở ngại vô cùng lớn đó là các con tàu tại đây là loại hai mũi nhọn không thể lắp động cơ gắn ngoài nều không sửa đổi. Sau khi thử nghiệm và có nhiều sai sót, động cơ gắn ngoài P125AK được phát triển cùng với một mẫu thuyền mới có thể lắp được động cơ gắn ngoài phù hợp với nhu cầu thị trường. Chính sự kết hợp mới mẻ này đang thu hút được kỳ vọng tại Pakistan.
Tuy nhiên các thử thách cho Yamaha chưa hề kết thúc sau khi đưa các động cơ gắn ngoài P125AK vào Pakistan. Sau mẫu P125AK được Yamaha đã phát triển mẫu P250K mới cho thị trường này nhưng đã gặp nhiều vấn đề về máy móc gây ra sự bất tiện cho người sử dụng. Yamaha Motor đã phản ứng nhanh chóng bằng cách cử các kỹ thuật viên từ Nhật Bản đến để khảo sát tình hình. Những gì họ thấy là việc các động cơ đã làm việc quá tải một thời gian dài. Những mẫy P125K là dòng thương mại nếu xảy ra hỏng hóc sẽ ảnh hưởng ngay lập tức và trực tiếp đến sinh kế chủ tàu. Nhận thức được tính nghiêm trọng của sự việc nên mỗi khi có sự cố xảy ra, công ty đều nhanh chóng cử đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên đến xử lý sự cố một cách triệt để. Phong cách phản ứng nhanh chóng tại hiện trường này đã trở thành quan điểm cơ bản của Yamaha trong thị trường máy gắn ngoài dành cho mục đích thương mại, điều này vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Những nỗ lực không ngừng của chúng tôi đã mang lại cho người dùng cảm giác chắc chắn rằng Yamaha sẽ luôn ở đó để giải quyết mọi vấn đề phát sinh và danh tiếng đó nhanh chóng lan rộng khắp các thị trường châu Á. Ngoài ra, những đợt xuất khẩu đầu tiên của các động cơ gắn ngoài sang Pakistan, Yamaha Mô tô đã xây dựng nền tảng cho một mạng lưới dịch vụ xuất sắc gắn liền với tên Yamaha trên toàn thế giới.

Đến những năm 1970, Yamaha đã tăng cường mối quan hệ với các thị trường mới nổi trên thế giới. Động cơ gắn ngoài của Yamaha đã lan rộng thành công sang các thị trường mà các nhà sản xuất dàn ngoài của Mỹ và Châu Âu chưa bao giờ mạo hiểm vào thời điểm đó. Bao gồm các quốc gia trên khắp Châu Phi, Trung và Nam Mỹ, Trung Đông, Nam và Đông Nam Á, cũng như các đảo ở Thái Bình Dương và tại mỗi khu vực này, Yamaha tiếp tục tích cực thực hiện dịch vụ hậu mãi.

Sau nhưng sự cố và kinh nghiêm đúc rút từ nhiều thị trường khác nhau, bằng sự nghiên cứu cải tiến không nhưng nghỉ đã tạo tiền đề để Yamaha phát triển ra một dòng động cơ gắn ngoài thương mại mới hoạt đột bền bỉ, chịu được nhiều yếu tố khắc nghiệt với dòng ENDURO được ưa chuộng đến ngày hôm nay.

Hướng tới các mẫu động cơ gắn ngoài công suất lớn

Vào năm 1974 Yamaha Motor đã tung ra thị trường mẫu động cơ 55A, động cơ trang bị 2 xi-lanh dung tích 760cc làm mát bằng chất lỏng. Nó có các công nghệ mới và độc quyền với xi-lanh tôi các-bon, công nghệ chế tạo thanh nối pít-tông hai mảnh và hệ thống đánh lửa CDI. Điều này là cơ sở để Yamaha phát triển các dòng động cơ có công suất lớn hơn.
Năm 1982 là sự ra mắt tiếp theo của các mẫu 200A và 220A với công suất hơn 200 mã lực. Sau đó vào tháng 9 năm 1983, sau khi Yamaha ngưng hợp tác với Brunswick Corporation, công ty đã mang đầy đủ các dòng sản phẩm gắn ngoài mang thương hiệu Yamaha tại một trong những triển lãm thương mại hàng hải lớn nhất thế giới ở Chicago, Hoa Kỳ. Sự kiện này trên đất Mỹ báo hiệu sự gia nhập của Yamaha với tư cách là một nhà sản xuất động cơ gắn ngoài tại thị trường Bắc Mỹ. Độ tin cậy mạnh mẽ mà Yamaha đã có được trong nhiều năm tại các thị trường sử dụng thương mại trên toàn cầu đã dẫn đến việc các động cơ gắn ngoài của hãng cũng được đón nhận nồng nhiệt tại thị trường lớn nhất thế giới ở Bắc Mỹ.

Trở thành thương hiệu toàn cầu

Các công nghệ độc quyền của Yamaha như lớp sơn có độ hoàn thiện và bền cao, động cơ có khả năng chống ăn mòn tốt, độ bền và đáng tin cậy được khẳng định hiệu quả qua quá trình hoạt động tại các thị trường thương mại khắc nghiệt nhất thế giới. Điều này giúp Yamaha trở nên nổi tiếng tại thị trường Hoa Kỳ trong cả các lĩnh vực vui chơi giải trí đồng thời đã đưa Yamaha trở thành thương hiệu hàng đầu thế giới được công nhận đến tận ngày nay.
Yamaha Motor tiếp tục coi trọng phương pháp tiếp cận theo định hướng thị trường, dành riêng cho mục đích sử dụng đã giúp hãng trở thành một thương hiệu toàn cầu. Trong khi đối với các thị trường sử dụng giải trí, Yamaha đã dẫn đầu trong việc phát triển một loạt các mẫu động cơ 4 thì chất lượng cao, đồng thời chúng tôi cũng tiếp tục cung cấp một dòng sản phẩm đáng tự hào gồm các mẫu động cơ 2 thì từ 2 đến 250 mã lực cho mục đích thương mại trên toàn thế giới. Hơn nữa, những mẫu này có rất nhiều biến thể phù hợp với các yêu cầu cụ thể của khu vực và địa phương liên quan đến các yếu tố như điều kiện sử dụng thực tế và loại thuyền mà chúng được trang bị. Chính sự cống hiến của Yamaha cho các nhu cầu cụ thể của khách hàng đã khiến chúng tôi trở thành thương hiệu được mọi người trên toàn thế giới lựa chọn sử dụng và yêu thích ngày nay.
Yamaha Motor đã sản xuất và tiếp thị động cơ gắn ngoài 2 thì trong hơn 50 năm kể từ khi ra mắt chiếc động cơ gắn ngoài đầu tiên của Yamaha vào năm 1960. Động cơ gắn ngoài được sử dụng trên toàn thế giới trong nhiều môi trường và cho nhiều mục đích sử dụng. Sự tập trung cao nhất của nhu cầu đối với động cơ ngoài 2 thì là ở những thị trường nơi mục đích sử dụng thương mại. Bởi vì Yamaha muốn đáp ứng nhu cầu của càng nhiều người dùng càng tốt bằng các động cơ gắn ngoài đáng tin cậy có khả năng đáp ứng nhu cầu của các điều kiện và môi trường sử dụng khắc nghiệt nhất, chúng tôi tiếp tục cung cấp đầy đủ các mẫu động cơ 2 thì cùng dòng Enduro và động cơ 2 thì nhiên liệu dầu hỏa, bên cạnh đó là dòng động cơ 4 thì. Giờ đây dòng 2 thì đã có diện mạo mới nổi bật hơn.

Tiến dần tới thương hiệu số một thế giới

Yamaha đã xây dựng danh tiếng của mình với tư cách là nhà sản xuất động cơ gắn ngoài 2 thì, nhưng yếu tố chính để được công nhận là thương hiệu động cơ gắn ngoài hàng đầu thế giới là chuyên môn kỹ thuật trong việc tạo ra các động cơ thân thiện với môi trường hơn. Hoa Kỳ lần đầu tiên thực hiện các tiêu chuẩn khí thải bên ngoài vào những năm 1990 để giảm tác động môi trường của họ, và các quốc gia phát triển cũng như các nền kinh tế mới nổi sau đó lần lượt làm theo. Phong trào then chốt này đã sớm chuyển trọng tâm của các nhà sản xuất động cơ gắn ngoài sang việc phát triển các động cơ thân thiện với môi trường hơn. Nhưng Yamaha đã bắt đầu R&D để tạo ra động cơ 4 thì vào năm 1975 và ra mắt F9.9A 2 xi-lanh là động cơ 4 thì đầu tiên của hãng vào năm 1984.

Những tiến bộ vượt bậc tiếp theo được thể hiện vào năm 1992, model F9.9 đã trở thành chiếc động cơ gắn ngoài đầu tiên trên thế giới tuân thủ các quy định về khí thải của Bodensee-Schifffahrts-Ordnung (BSO) (quản lý phương tiện thủy trên Hồ Constance ở biên giới Đức, Thụy Sĩ và Áo ), được cho là khắt khe nhất thế giới lúc bấy giờ. Yamaha ra mắt F100A vào năm 1998, một mẫu động cơ được trang bị động cơ DOHC 4 xi-lanh thẳng hàng, 16 van. F100A tự hào về sức mạnh hàng đầu và hiệu suất thân thiện với môi trường, đồng thời với đầy đủ các loại giá đỡ máy nằm ngang, nhiều loại chân vịt, v.v., nó có thể được sử dụng trên nhiều loại thuyền khác nhau trên khắp thế giới.

Vào năm đầu tiên của thế kỷ 21, Yamaha đã phát hành F225A, động cơ gắn ngoài 4 thì công suất lớn đầu tiên trên thế giới có công suất trên 200 mã lực. Vào thời điểm đó, việc sản xuất một động cơ ngoài 4 thì vượt quá 200 mã lực được coi là khó khăn về mặt công nghệ. Nhưng Yamaha đã vượt qua các rào cản kỹ thuật bằng cách trang bị cho F225A khối động cơ 60° V6 DOHC hoàn toàn mới với hệ xả nằm trong cấu trúc hình chữ V của xi-lanh và hệ thống nạp khí nằm bên ngoài. Điều này giúp kích thước động cơ tương đương với động cơ 2 thì cao cấp thời đó và trọng lượng phù hợp để sử dụng bên ngoài. Hơn nữa, F225A nổi bật với hệ thống nạp và xả hiệu quả cao đã giảm lượng khí thải và cải thiện khả năng tiết kiệm nhiên liệu khi chạy ở tốc độ cao.

Bằng cách này, việc giảm trọng lượng và đạt được độ nhỏ gọn cao hơn, tiết kiệm nhiên liệu tốt, ít tiếng ồn và thân thiện với môi trường tuyệt vời trong khi vẫn giữ được độ tin cậy đã trở thành mục tiêu chính cho tất cả sự phát triển động cơ 4 thì phía ngoài của Yamaha.

Sự tin cậy dành cho ngành hàng hải đầy phong phú

Vào năm 2018, Yamaha đã phát hành model F425A. Được trang bị khối động cơ V8 hoàn toàn mới, đây là động cơ 4 thì đầu tiên sử dụng hệ thống phun xăng trực tiếp, giúp phun nhiên liệu với áp suất cao và chính xác trực tiếp vào từng buồng đốt. Ngoài ra, việc áp dụng các bộ phận tăng cường cho hộp số, giá đỡ, trục cam và các bộ phận khác như bề mặt xi-lanh được phủ bằng công nghệ plasma, bugi iridium và các công nghệ và vật liệu mới khác của Yamaha đã giúp tạo ra động cơ 4 thì với công suất hàng đầu vượt trội mà còn có độ tin cậy và độ bền tuyệt vời. Với dung tích 5.559cc và công suất lên tới 425 mã lực, mẫu động cơ này có sức mạnh khủng khiếp, nó cũng gây chú ý không chỉ đến việc dễ dàng lắp đặt cho các ứng dụng khác nhau mà còn thân thiện với người dùng khi vận hành. Nó đã mang đến một cuộc cách mạng, suy nghĩ khác về việc một động cơ gắn ngoài có thể mang lại công suất lớn cho các loại tàu lớn hoạt động xa bờ.